Khi nhắc đến khái niệm “tảo hôn” trong bối cảnh Việt Nam và thế giới đều nghĩ đến ngay là việc trẻ em (nhất là trẻ em gái/phụ nữ) dưới 18 tuổi kết hôn. Các chiến dịch toàn cầu luôn vận động để chấm dứt nạn “tảo hôn” này trong gần hơn 10 năm qua. Các hoạt động này phản ánh các cam kết quốc tế ngày càng tăng với vấn đề bình đẳng giới, khi mà hướng sự chú ý vào Nam Á và châu Phi cận Sahara, nơi mà ngày nay ước tính có khoảng 50% và 40% trẻ em gái kết hôn dưới 18 tuổi. Mối quan ngại về nhân đạo dựa trên quan điểm cho rằng các cô dâu trẻ thiếu quyền tự chủ và được cung cấp đầy đủ thông tin đồng ý kết hôn, và kết hôn sớm gây ra một loạt các hậu quả có hại, bao gồm nguy cơ sức khỏe do mang thai sớm, thành tích học tập thấp, sức khỏe tâm thần kém, hạn chế các cơ hội kinh tế và nguy cơ cao bị bạn tình bạo hành.
Vấn đề đáng nói ở đây là các phong trào đòi xóa bỏ “tảo hôn” luôn đặt một cái mốc trưởng thành là 18 tuổi. Chính cái mốc 18 tuổi này như là phân định ranh giới rất rạch ròi giữa sự ngây thơ của trẻ thơ với trách nhiệm của người lớn. Sự phân định cột mốc 18 tuổi đã làm cho mọi người nghĩ rằng trước 18 tuổi là trẻ thơ chưa đủ nhận thức về hành vi, sau 18 tuổi là trưởng thành để mang vác trách nhiệm của người lớn. Nhưng trong thực tế ở nhiều bối cảnh văn hóa thì ranh giới giữa trẻ thơ và trưởng thành không bị phân định rạch ròi bởi mốc 18 mà phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện xã hội và văn hóa của vùng đó. Nghiên cứu nhân loại học cũng cho thấy rằng “tảo hôn” xuất hiện ở cái gọi là “tuổi vị thành niên muộn” tầm 15 – 17 tuổi, khi mà tuổi đó chủ thể nam và nữ đều đã nhận thức được quyền tự chủ của họ trong các mối quan hệ yêu đương, gia đình và xã hội nhưng lại không được các tổ chức quốc tế (phương Tây) công nhận.
Các nhà nhân loại học không phủ định tảo hôn ở một số khu vực là sự cưỡng ép, gây nguy hại và tác động tiêu cực đến trẻ em gái như trường hợp ở vùng nông thôn Ấn Độ. Nhưng không phải nơi nào cũng như vậy. Cha mẹ người Maasai Kenya cho rằng kết hôn sớm như một biện pháp đảm bảo tương lai cho con gái họ thông qua hình thành các liên minh trong bối cảnh sinh kế thay đổi làm hạn chế cơ hội đối với trẻ em gái. Các bậc cha mẹ cũng cho biết kết hôn sớm bảo vệ con gái khỏi những rủi ro xã hội và sức khỏe liên quan đến quan hệ tình dục trước hôn nhân và, mại dâm và sinh con. Hơn nữa, phụ nữ trẻ đôi khi coi kết hôn sớm là cải thiện cuộc sống của họ bằng cách giúp đỡ gia đình và bản thân về kinh tế, giành được sự độc lập hoặc được tôn trọng trong gia đình và cộng đồng hoặc bảo vệ sức khỏe của họ thông qua việc giới hạn bạn tình. Nghiên cứu cũng nhấn mạnh những cái giá phải trả đối với kết hôn sớm bao gồm bạo lực, mất cân bằng quyền lực giữa vợ và chồng, và thiếu sự chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống hôn nhân.
Nhóm nghiên cứu của nhà nhân loại học là Susan B. Schaffnit và David W. Lawson đã nghiên cứu về tảo hôn ở vùng nông thôn Tanzania thì lại thấy kết quả ngược lại mà người ta hay nói về tác động tiêu cực của tảo hôn. Nguyên nhân những người phụ nữ và đàn ông tại Tanzania kết hôn bởi vì trong quan niệm của họ việc có con là điều hạnh phúc không chỉ ở gia đình mà còn cả họ tộc, điều hòa mối quan hệ gia đình để tránh xung đột, chia sẻ trách nhiệm trong cuộc sống. Đặc biệt, tại Tanzania thì việc kết hôn chính là nâng tầm địa vị xã hội của phụ nữ lên, làm cho tiếng nói của phụ nữ sau khi kết hôn có trọng lượng trong cộng đồng. Kết quả nghiên cứu định lượng cũng cho thấy 86% phụ nữ đã từng kết hôn cho biết địa vị của họ trong cộng đồng được cải thiện sau khi kết hôn. Chỉ 2% cảm thấy rằng tình trạng của họ trở nên tồi tệ hơn kể từ khi kết hôn, trong khi những phụ nữ còn lại cho biết tình trạng của họ không thay đổi. Phụ nữ kết hôn trong độ tuổi từ 15 đến 22 có nhiều khả năng báo cáo tình trạng được cải thiện sau khi kết hôn muộn, mặc dù phần lớn những người kết hôn sớm hơn và muộn hơn cũng cho biết có sự cải thiện.
Trong nền văn hóa Tanzania việc kết hôn “sớm” hay “muộn” không phân định ở mốc 18 tuổi. Người trong cộng đồng Tanzania sẽ cho rằng bạn trưởng thành hay chưa trưởng thành để kết hôn do hình thể của bạn:
“ Ở tuổi 14, một cô gái có thể trông giống người lớn vì cơ thể của mình ” (phỏng vấn sâu nam, nông thôn). Việc gia đình cần người phụ việc hoặc kinh tế kém (thông qua nhận sính lễ) thì kết hôn sớm cũng là cách để cải thiện điều đó. Nhìn điều này như cha mẹ ép con cái kết hôn để cải thiện điều kiện kinh tế. Nhưng một số người trong cộng đồng lại cho rằng những nhà mà gả con gái sớm không phải do cha mẹ ép buộc mà là có thai trước khi cưới. Việc kết hôn “sớm” còn được người dân ở đây định nghĩa nếu một người trẻ tuổi kết hôn trước anh chị em hoặc bạn bè đồng lứa của họ thì họ đã kết hôn quá sớm. Ngược lại, nếu họ chưa kết hôn khi em của họ và bạn bè của họ kết hôn thì họ đã quá muộn. Bằng cách không lập gia đình, quyền lực hoặc tuổi trưởng thành của những người trẻ tuổi bị suy yếu. Một phụ nữ chưa lập gia đình có thể bị gọi là “ msi–chana wa gunila ” (cô gái vô giá trị) và không thể nhận được sự tôn trọng từ cộng đồng của mình thông qua các vai trò khác. Nam giới không kết hôn bị coi là trốn tránh trách nhiệm, ham chơi. Mặt khác, một người đàn ông kết hôn quá sớm có nguy cơ không thể chu cấp cho vợ con, do đó làm suy giảm địa vị của anh ta. Đàn ông và phụ nữ kết hôn quá sớm cũng có nguy cơ sinh quá nhiều con -(theo quan niệm địa phương). Sự cởi mở của nền văn hóa Tanzania còn cho thấy rằng nếu người phụ nữ hay đàn ông ở tuổi 14, 15 mà cảm thấy trưởng thành thì có thể kết hôn. Trong những trường hợp như vậy, những trẻ vị thành niên này sẽ sử dụng cuộc hôn nhân của họ như một cách để “ thông báo ” tuổi trưởng thành của họ. Theo cách này, tuổi trưởng thành cũng có thể là kết quả của hôn nhân hơn là nguyên nhân. Đàn ông và phụ nữ đảm nhận những trách nhiệm mới trong hôn nhân, những trách nhiệm chuyển biến họ thành người lớn cũng như cột mốc thông báo cho cộng đồng rằng họ đã trưởng thành.
Quá trình kết hôn thường được cặp đôi thảo luận với nhau, tuy nhiên cha mẹ cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình này. Tài sản của cô dâu cũng được thương lượng sau khi cặp đôi đồng ý kết hôn. Trong một số trường hợp, cha mẹ của bên nhà gái tìm kiếm sính lễ từ phía nhà trai. Một số ý kiến cho rằng hôn nhân do cặp đôi tự định hướng (trái ngược với định hướng của cha mẹ – XIN LƯU Ý “ĐỊNH HƯỚNG” (cho lời khuyên bảo) KHÔNG PHẢI “ÉP BUỘC”) là một sự phát triển gần đây và có thể phản ánh các chuẩn mực đang thay đổi do sự suy giảm niềm tin vào Chúa hay tiếp xúc với văn hóa phương Tây, thiếu sự tham gia vào việc chăm sóc con cái của cha mẹ.
Người trẻ khi kết hôn thì họ cũng có quyền tự chủ trong việc ra quyết định về tình dục và sinh sản ở những người trẻ tuổi. Những người phương Tây thường cho rằng phụ nữ dưới 18 tuổi không có khả năng đưa ra những quyết định đầy đủ về hôn nhân. Tuy nhiên, ranh giới giữa sự ngây thơ của trẻ thơ và trách nhiệm của người lớn là rất linh hoạt; trong một số trường hợp, việc tăng tốc độ trưởng thành có thể được sử dụng để tạo lợi thế cho phụ nữ . Một phụ nữ tham gia khảo sát kết hôn trước 15 tuổi đã sớm mồ côi và sống với một gia đình nhận nuôi mình và thường bị ngược đãi. Cô ấy đã sử dụng việc kết hôn với một người đàn ông lớn tuổi để đẩy nhanh quá trình trưởng thành của mình, do đó giải phóng bản thân khỏi gia đình bạo hành của mình. Vì vậy, thay vì ấn định ngưỡng 18 tuổi một cách tùy tiện, mối quan tâm nhân đạo xung quanh vấn đề “tảo hôn” có thể nên tập trung lại vào những hoàn cảnh có thể dự đoán một cách đáng tin cậy hơn về những vi phạm quyền tự chủ của phụ nữ: ở những khu vực phổ biến tình trạng tảo hôn (<15 tuổi), khi cha mẹ có toàn quyền kiểm soát quá trình hôn nhân, hoặc khi không thể dùng ly hôn để chấm dứt hôn nhân. Chúng ta cũng phải lưu ý rằng các lựa chọn hôn nhân ở mọi lứa tuổi không bao giờ được thông báo đầy đủ hoặc không bị ràng buộc. Các lựa chọn luôn bị hạn chế bởi các tùy chọn có sẵn tại địa phương và các đặc điểm cá nhân (ví dụ: chủng tộc, tầng lớp, giới tính). So sánh hôn nhân trước 18 tuổi với hôn nhân cưỡng bức là bỏ qua các lựa chọn, tiếng nói, lối sống và sự phức tạp của địa phương.
Trong xã hội ở Tanzania, một người phụ nữ đạt được tôn trọng có thể bằng con đường học vấn, nhưng những người phụ nữ không có điều kiện kinh tế để tiếp tục việc học thì kết hôn cũng là cách giúp cho người phụ nữ ấy được cộng đồng tôn trọng. Nhận định rằng “tảo hôn” làm hạn chế phụ nữ tham gia vào nền kinh tế địa phương và cộng đồng thì tại Tanzania cho kết quả ngược lại. Khi được phỏng vấn sâu người phụ nữ cho rằng hôn nhân trên thực tế có thể cho phép cô ấy tham gia đầy đủ vào cộng đồng của mình về mặt kinh tế. Việc vẫn chưa lập gia đình sẽ khiến các thành viên trong cộng đồng đặt câu hỏi về khả năng của cô ấy và không cho cô ấy tham gia các hoạt động bên ngoài gia đình. Ở những khu vực khác ở Tanzania, nơi phụ nữ làm việc bên ngoài ít phổ biến hơn ở Kisesa, hôn nhân cũng mang lại cho phụ nữ sự độc lập về kinh tế, mặc dù cũng có phần là thông qua tài hỗ trợ tài chính của người chồng.
Qua bài viết này, chúng tôi mong muốn đề xuất rằng không nên gọi cuộc hôn nhân dưới 18 tuổi là “tảo hôn” – trong ngôn ngữ tiếng Việt nó hàm chứa rất nhiều định kiến thể hiện người bản địa là lạc hậu, kém hiểu biết (ví dụ: nạn tảo hôn, phong tục tảo hôn). Thay vào đó, nên gọi là “kết hôn sớm” hoặc “kết hôn dưới 18 tuổi”. Việc kết hôn sớm không phải là nguyên nhân của việc bỏ học. Mà nó bị tác động bởi yếu tố kinh tế nghèo đói, bối cảnh chính trị mà phụ nữ ở đó có ít lựa chọn để thay thế mà chúng ta phải cần nhận ra để cải thiện nó. Trong bối cảnh ở Việt Nam, nhiều tộc người ở Tây Nguyên và khu vực vùng núi phía Bắc cũng kết hôn sớm, ngoài việc trách móc cha mẹ của những người trẻ đó một cách vô tội vạ hay nhận định văn hóa của họ đầy hủ tục và lạc hậu thì phải xem xét trong nền văn hóa của họ quan niệm độ tuổi trưởng thành rất linh hoạt không phải quy định bởi mốc 18 tuổi, cũng như những vấn đề kinh tế và chính trị tác động lên họ. Góc nhìn thiển cận chỉ tập trung vào ngưỡng 18 tuổi để tùy tiện phân chia hôn nhân có hại với hôn nhân không có hại, hay mặc đinh về sự ngây thơ của thời thơ ấu với trách nhiệm của người lớn có thể dẫn đến việc bỏ lỡ cơ hội hỗ trợ trẻ em gái và phụ nữ bất kể tình trạng hôn nhân của họ. Vì thế cần một sự nhạy cảm hơn về văn hóa để cung cấp thông tin tốt hơn cho các sáng kiến toàn cầu để hỗ trợ trẻ em gái và phụ nữ trẻ dễ bị tổn thương ở những nơi có thu nhập thấp như vùng nông thôn.
Tài liệu tham khảo:
Archambault, C. S. (2011). Ethnographic empathy and the social context of rights:“Rescuing” Maasai girls from early marriage. American anthropologist, 113(4), 632-643.
Nour NM. Health consequences of child marriage in Africa. Emerg Infect Dis. 2006;12:1644-1649.
Schaffnit, S. B., Urassa, M., & Lawson, D. W. (2019). “Child marriage” in context: exploring local attitudes towards early marriage in rural Tanzania. Sexual and reproductive health matters, 27(1), 93-105.
UN General Assembly. Transforming our world: the 2030 agenda for sustainable development. A/RES/70/1; 2015.