Ruth Benedict (1946), mặc dù đã sai khi cho rằng Nhật Bản là một nền văn hóa xấu hổ trái ngược với một nền văn hóa tội lỗi, nhưng đã đúng khi nắm bắt được tính phổ biến của sự xấu hổ trong văn hóa Nhật Bản. Một nền văn hóa bộc lộ sự xấu hổ ra bên ngoài một cách tự nhiên. Để thật sự hiểu được trọn vẹn cần đặt sự xấu hổ và tội lỗi lên “cán cân” so sánh. Tội lỗi được đánh giá trên các hành động được thực hiện bởi chủ thể; trong khi sự xấu hổ “lôi” bản bản thân chủ thể ra làm tâm điểm, cảm giác nhận thức trong sự xấu hổ rõ ràng ở bản thân lại tạo ra sự đau đớn hơn nhiều. Tuy nhiên sự xấu hổ không hoàn toàn được hình thành từ các tác nhân tiêu cực. Một người cảm thấy xấu hổ khi không chỉ bị chế giễu mà còn cả lúc được khen ngợi, điều làm phát sinh xấu hổ ở đây là thực tế một người phải đối mặt với sự chú ý tập trung hoặc “cái nhìn” của người khác, cho dù đó là ác ý hay nhân từ (Sakuta, 1967).
Một nghiên cứu so sánh của Barnlund được thực hiện năm 1975, giữa các sinh viên đại học Nhật Bản và Mỹ về sự bộc lộ bản thân trong giao tiếp. Ông đã thử nghiệm giả thuyết rằng người Nhật bộc lộ bản thân ít hơn người Mỹ. Chứng minh cho thấy rằng, chiến thuật không tiết lộ bản thân được người Nhật sử dụng ngay cả khi đứng trước các mối đe dọa: trong bối cảnh đe dọa giữa các cá nhân, một số người chủ yếu chỉ dựa vào một hoặc hai chiến thuật phòng thủ. Trong trường hợp của người Nhật, họ thường thích giữ im lặng, cười hoặc trả lời mơ hồ. Việc tránh phô bày có liên quan nhiều đến sự nhấn mạnh về mặt văn hóa (Aida, 1970:21-26). Làm cơ sở cho điều này là quy tắc khiêm tốn, theo đó cái tôi được cho là vẫn bị che giấu, không được bộc lộ.
Một mặt sự xấu hổ khiến người Nhật không có nhu cầu được bộc lộ bản thân quá nhiều, mặt khác nó còn khuyến khích họ thể hiện bản thân một cách hoàn hảo nhất có thể. Chính nền văn hóa Nhật Bản lại có rất nhiều quy tắc để thúc đẩy sự thể hiện bản thân như vậy, gồm: giao tiếp trang trọng bằng lời nói và phi ngôn ngữ; các quy tắc về lời nói, cử chỉ, nét mặt, tư thế, các hành động phối hợp chung của các thành viên trong nhóm như ca hát và điền kinh; tổ chức trong các thủ tục của nghi lễ, tiệc chiêu đãi, và những thứ tương tự. Không có gì ngạc nhiên khi người Nhật đã trau dồi và duy trì cái có thể gọi là nghệ thuật trang trọng, và trà đạo là một ví dụ nổi bật. Một thường thức nghi thức trà đạo là màn trình diễn tuân theo những quy tắc cố định, phức tạp về tư thế, thao tác dụng cụ pha trà, chuẩn bị và phục vụ hoặc nhận và đánh giá cao trà. Dựa trên nền tảng của sự xấu hổ, người Nhật chấp nhận cách thể hiện bản thân theo quy tắc như vậy lại được xem là mang tính thư giãn, trị liệu hoặc tạo sự yên tĩnh.
Ác cảm với sự lộ liễu và mong muốn thể hiện sự hoàn mỹ một cách trang trọng làm nền tảng cho sự nhạy cảm của người Nhật đối với sự xấu hổ, cùng nhau hành động để ngăn chặn sự thể hiện bản thân. Những điều này sẽ gây ra sự phì đại bệnh hoạn của cái mà Barnlund (1975) gọi là “cái tôi riêng tư”, trừ khi, có một số cơ hội hợp pháp để bộc lộ bản thân, hoặc để giải phóng phần quá mức của cái tôi riêng tư thành cái tôi công khai. Điển hình là một tiệc cưới mà được quan sát ở Thành phố phía Đông Nhật Bản năm 1978:
[Giai đoạn đầu tiên bị chi phối bởi sự trang trọng cực độ, được đánh dấu bằng một loạt bài phát biểu rất cách điệu của những vị khách được mời đến chỉ để tăng sự uy tín của gia đình, chẳng hạn như chủ tịch của công ty tuyển dụng chú rể và một ủy viên hội đồng tỉnh. Giai đoạn thứ hai được bắt đầu bằng cách nâng cốc đồng loạt. Bây giờ người chủ trì buổi lễ bảo các vị khách bắt đầu ăn trong khi lắng nghe, chuyển sang một loạt bài phát biểu khác. Lần này, các diễn giả đứng lên phát biểu tại chỗ của mình, khác với các diễn giả trước, họ là những người kém uy tín hơn nhưng lại gắn liền trong cuộc sống của cô dâu chú rể. Giai đoạn thứ ba và cũng là giai đoạn cuối cùng, người điều khiển buổi lễ đã thông báo “chiêu đãi.” Lúc này, tình trạng say xỉn đang diễn ra, mọi người di chuyển từ bàn này sang bàn khác để trao đổi cốc rượu sa-kê như một biểu hiện của tình bạn, nói chuyện ồn ào, ngủ gật. Các bài hát và vũ điệu nổi tiếng được biểu diễn trên sân khấu, nội dung của chúng ngày càng trở nên khiếm nhã và tục tĩu. Đặc biệt là phụ nữ trung niên pha trò cười khiêu dâm và hát về giao cấu. Có vẻ như nhịp sống của người Nhật đại diện cho các chu kỳ luân phiên giữa sự ức chế và thể hiện, hoặc phơi bày quá ít hoặc phơi bày quá mức.]
Trái ngược với việc Benedict (1946) coi Nhật Bản là một nền văn hóa xấu hổ, cảm giác tội lỗi sâu sắc đã được công nhận là phổ biến ở người Nhật (DeVos 1974). Người Nhật được xã hội hóa để phản tư (self-reflection), bắt đầu từ thời điểm còn đi học người Nhật đã tham gia các lớp học phản tư (một chương trình giảng dạy ở trường). Cho đến khi trưởng thành, họ đã được hình thành một bản chất văn hóa được xã hội hóa. Người Nhật trước một tình huống căng thẳng, một số ví dụ: “Người chồng về nhà rất muộn vào ban đêm; người vợ cho rằng đó là vì cô ấy thiếu tình cảm và cố gắng hết sức; cuối cùng anh ta thay đổi” (1974:128); “Anh trai làm sai bị công an kiểm tra, đưa về đồn nhưng sẽ về nhà cải tạo. Cô em cũng cho rằng mình đã làm sai” (DeVos, 1974). Chung quy lại, cảm giác tội lỗi của người Nhật gắn liền với mối quan tâm tập trung ở chỗ việc một người nhận thức được người khác là nạn nhân của hành động hoặc sự không hành động của mình là điều cần thiết.
Tính phân bổ của cảm giác tội lỗi còn có một hàm ý xa hơn. Mặc dù xấu hổ và tội lỗi có lẽ phổ biến như nhau, nhưng người Nhật có xu hướng nhấn mạnh cảm giác tội lỗi khi thể hiện cảm xúc của họ hơn. Nguyên do là bởi vì đối với người Nhật, trạng thái tội lỗi ưu việt hơn sự xấu hổ. Cả sự xấu hổ và tội lỗi đều là những biện pháp trừng phạt đạo đức quan trọng đối với người Nhật, tuy nhiên, để thừa nhận sự xấu hổ so với tội lỗi lại mang tính chất vị kỷ nhiều hơn dẫn đến sự mâu thuẫn nội tại trong khi lựa chọn. Có thể kết luận rằng cảm giác tội lỗi được gắn chặt hơn sự xấu hổ trong hệ thống đạo đức Nhật Bản, và do đó, cảm xúc xấu hổ thường được chuyển thành thuật ngữ tội lỗi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
AIDA, Y. (1970). Nipponjin no ishiki kozo (The structure of Japanese men-tality). Tokyo: Kodansha.
BARNLUND, D. C. (1975). Public and Private Self in Japan and the United States. Tokyo: The Simul Press.
BENEDICT, R. (1946). The Chrysanthemum and the Sword: Patterns of Japanese Culture. Boston: Houghton Mifflin.
DeVOS, G. (1974). The Relation of Guilt toward Parents to Achieve-ment and Arranged Marriage among Japanese. In Japanese Culture and Behavior: Selected Readings (T. S. Lebra, and W. P. Lebra, eds.) (pp. 117-141). Honolulu: The University Press of Hawaii.
LEBRA, T. S. (1983). Shame and guilt: A psychocultural view of the Japanese self. Ethos, 11(3), 192-209.
SAKUTA, K. (1967). Haji no bunka saiko (Shame culture reconsidered). Tokyo: Chikuma Shobo.