Dạo này thời tiết thành phố thay đổi thất thường, hay mưa nhiều, dẫn tới mọi người thường bị cảm lạnh. Nhân dịp này, chúng tôi lên một bài viết thú vị về một cách nhìn đối với cảm lạnh, đặt lại câu hỏi về cách con người chúng ta nhìn nhận về bệnh tật như thế nào.
Chúng tôi xin kể một câu chuyện nhỏ bên lề, rằng có lần nhóm chúng tôi có thành viên bị cảm lạnh do đổi mùa, nhưng do ốm sốt cao, mệt nên không thể tự ra ngoài mua thuốc. Bạn ấy phát hiện có thể đặt mua thuốc ”Gói 2 ngày thuốc cảm”.
Điều thú vị ở đây rằng cảm lạnh là bệnh mà chúng ta có thể tự cảm nhận, tự chẩn đoán được mà không cần phải thông qua các bác sĩ. Thay vì ra hiệu thuốc, bệnh viện để bác sĩ có thể quan sát cơ thể, khám theo quy tắc “Nhìn – Sờ – Gõ – Nghe”, thì giờ đây, bạn có thể tự chẩn đoán cho mình và đặt thuốc trên ứng dụng điện tử. Sau đó, dược sĩ sẽ gọi hỏi triệu chứng bạn như thế nào trước khi cho thuốc phù hợp.
Nếu ai từng mua và hiểu tác dụng thuốc sẽ thấy rằng các thuốc chữa cảm lạnh đa phần là Paracetamol giúp hạ sốt, các nhóm thuốc chống viêm không steroid giúp giảm viêm, hay những viên C sủi, vitamin; chúng đều không phải là những thuốc đánh trực tiếp vào “gốc rễ” bệnh, mà đó là những vị thuốc giảm triệu chứng – chỉ tác dụng ở phần “ngọn” nhằm nâng đỡ hệ miễn dịch. Vậy chúng ta có thể tự đặt câu hỏi rằng có thật sự cần những phương thuốc tây y không? Hay có thể lựa chọn những vị thuốc cổ truyền cũng có tác dụng tương tự?
Cảm lạnh là một bệnh lý đặc biệt mà không giống với bất kỳ bệnh nào khác, có hai lý do chính:
Thứ nhất, nó là bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất trong cuộc sống, ai cũng có thể mắc không chỉ một mà nhiều lần.
Điều thứ hai, đây là một trong những bệnh phức tạp nhất, không phải do cơ chế bệnh sinh mà vì nó được gây nên bởi rất nhiều chủng loại virus.
Tuy thuật ngữ “Cảm lạnh” (Common cold) được sử dụng thường xuyên trong y khoa, nhưng nó không phải là một thuật ngữ có định nghĩa thống nhất rõ ràng từ trước tới nay. Thay vào đó, nó được mọi người sử dụng phổ biến để mô tả một hội chứng bệnh thông thường, bao gồm những triệu chứng như hắt hơi, đau họng, sổ mũi và nghẹt mũi,…
Xét về yếu tố lịch sử, thuật ngữ này ra đời từ rất lâu để mô tả một loạt các hội chứng đã đề cập bên trên trước khi phát hiện ra loại vi-rút gây ra căn bệnh này.
Trong y khoa, điều quan trọng nhất chưa hẳn là biết cách điều trị bệnh, mà đó là việc bác sĩ có chẩn đoán ra được đúng bệnh hay không!
Vì thế khi chẩn đoán một bệnh lý nào đó, phải có định nghĩa rõ ràng, triệu chứng đặc hiệu… để định danh đúng tác nhân gây bệnh. Tổng hợp những kết quả ấy, thì mới được phép đặt bút ghi chẩn đoán xác định. Nhưng sự nghiêm ngặt trong quá trình chẩn đoán này, lại không được áp dụng đối với cảm lạnh. Tại sao lại như thế?
________________________________________
1.CẢM LẠNH TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA:
Từ “cảm lạnh” mà chúng tôi đang nói, nếu phân tích về mặt từ ngữ, bạn có thấy từ “lạnh” đang ám chỉ thời tiết thay vì một từ nào đó rõ về tác nhân khác (như “cảm khuẩn” chẳng hạn)? Điều này có phải nói lên cách chúng ta nhìn nhận về bệnh đang gắn liền với tác nhân do thời tiết/ tự nhiên hơn không?
Trong tri thức bản địa Việt Nam ngày trước, chỉ dùng khái niệm “thương hàn” để miêu tả cảm lạnh (khác với bệnh Thương hàn của tây y hiện nay, do vi khuẩn Salmonella typhi gây ra). Trương Trọng Cảnh – tác giả bộ sách nổi tiếng Thương hàn luận – cho rằng, vào mùa đông, hàn khí lưu hành, nếu cơ thể suy yếu thì chính khí không thể chống được hàn tà, khiến khí lạnh xâm nhập kinh lạc và tạng phủ, gây thương hàn. Chính khí (tức khí dương) là năng lực tự vệ của cơ thể chống lại mọi sự tấn công từ bên ngoài. Khí dương này ở trên bề mặt da vào ban ngày và lui vào trong tạng phủ vào ban đêm. Do đó, người ta dễ nhiễm lạnh nếu nằm ngủ suốt đêm trước quạt máy, nơi có gió lùa hoặc trong môi trường quá lạnh. Thời gian dễ bị cảm lạnh nhất là từ 11 giờ khuya đến khoảng 3 giờ sáng. Bạn thấy thú vị không, một cách luận khác về cùng một bệnh, mà vẫn có một sự logic về mặt lý luận, chưa bàn tới sự đúng – sai ở đây.
Mặt khác quan niệm cảm lạnh giữa các nền văn hóa có sự tương đồng về cách phân loại quan niệm “nóng – lạnh” trong nguyên nhân hình thành và chữa bệnh. Trong một cộng đồng chủ yếu là người da đỏ Guatemala, Logan (1978) nhận thấy bệnh cảm thông thường được xếp vào loại bệnh “lạnh” và được điều trị bằng các phương pháp chữa trị “nóng”. Trong một nghiên cứu về người Puerto Rico ở Connecticut, Lieberman (1979) đã lưu ý đến một số niềm tin về thực hành nóng – lạnh. Cô mô tả sự duy trì cân bằng chính là chìa khóa để có sức khỏe tốt. Cụ thể, cô nhận thấy rằng trẻ em bị cảm sẽ không được uống sữa, vì sữa bị xếp vào loại đồ “lạnh”. Và những thói quen trong niềm tin nóng – lạnh cũng đã được ghi nhận ở những người Mestizos ở Sonora, Mexico (Baer 1998), đặc biệt là đối với các loại thực phẩm có sự phù hợp với tình trạng sức khỏe khác nhau như thế nào. Ví dụ, phô mai tươi tự làm được coi là muy fresca (rất mát) và do đó người bị cảm lạnh không nên ăn. Một ví dụ khác về những mối quan hệ này được thấy ở người da đỏ Tarascan; ăn thực phẩm “lạnh” được cho là nguyên nhân gây ra bệnh cảm lạnh hoặc cúm. Người ta cũng tin rằng để chữa khỏi căn bệnh này, thì phải nên ăn những thực phẩm “nóng” (Young và Garro 1994).
Có nhiều nghiên cứu về bệnh cảm lạnh cho thấy rằng đa số mọi người có niềm tin, suy nghĩ cho rằng bệnh lý này nằm phần lớn ở lĩnh vực y sinh, nhưng quan niệm chung lại đều gắn liền với khái niệm văn hóa, cổ truyền dân gian. (Baer et al. 1999).
Đặc biệt là hệ thống phân loại các phương pháp điều trị cảm lạnh, trạng thái cơ thể,… giữa các nền văn hóa đều có điểm chung trong tư duy “nóng” – “lạnh”. Đôi khi việc nhìn nhận bệnh tật nên thoát khỏi hệ quy chiếu của tây y để soi rọi toàn diện hơn dưới những tầng nghĩa văn hóa.
________________________________________
2.TIẾP CẬN THEO GÓC NHÌN (TÂY) Y KHOA:
Để có thể chẩn đoán một bệnh, thì trước hết cần phải xác định được chính xác tác nhân, có một định nghĩa rõ ràng. Nhưng điều này lại không hề dễ dàng với cảm lạnh.
Đa số những định nghĩa thường đề cập chung là một tình trạng nhiễm virus cấp tính ở đường hô hấp trên. Thí dụ: “Tình trạng nhiễm vi-rút trong số khoảng 200 loại vi-rút, khoảng một nửa số ca nhiễm cảm lạnh thông thường là do Rhinoviruses” – Blacks Medical Dictionary (2002). Hay theo Merck Manual (1999): “Một tình trạng cấp tính, thường không sốt, nhiễm virus ở đường hô hấp, kèm theo viêm ở bất kỳ hoặc tất cả đường thở, bao gồm mũi, xoang cạnh mũi, họng, thanh quản và đôi khi là khí quản và phế quản. – Triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng không đặc hiệu”.
2.1.Trước tiên hãy thử tiếp cận theo triệu chứng học:
- Có thể xây dựng bảng điểm, thang đo để chẩn đoán cảm lạnh, đây là một trong những hướng đi trong các nghiên cứu lâm sàng đã được Jackson và các đồng nghiệp nghĩ ra vào năm 1958. Tuy nhiên, nghiên cứu này lại có những điểm hạn chế khiến cho nó khó áp dụng được phổ biến rộng rãi. Vì tỷ lệ mắc, mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng thay đổi trong quá trình nhiễm virus và mức độ trầm trọng của bệnh có thể từ nhẹ hoặc không có triệu chứng, có khả năng sẽ trở nặng thêm, dẫn tới sốt cao, nhiễm trùng đường hô hấp dưới đe dọa tới tính mạng.
- Những bệnh như dị ứng, sởi, quai bị hay rubella cũng có thể biểu hiện triệu chứng đường hô hấp giống như cảm lạnh vậy. Vì vậy, cần phải thận trọng khi vội vàng kết luận bệnh nhân chỉ có mỗi cảm lạnh, mà phải đề phòng các bệnh có triệu chứng tương tự nhằm tránh bỏ sót. Và điều này thực sự gây khó khăn cho việc chẩn đoán cảm lạnh mà chỉ dựa trên các triệu chứng. Như Merck Manual (1999) đã định nghĩa ở trên, không hề có những triệu chứng nào “đặc hiệu”, điển hình cho cảm lạnh cả.
2.2. Tiếp cận theo Virus học thì sao:
Nếu chẩn đoán cảm lạnh dựa trên virus học thì cũng cần phải xác định được rõ loại virus gây nên, nhưng điều này lại khó khả thi vì số lượng chủng loại virus gây nên cảm lạnh là quá nhiều, như Weber mô tả, nguyên nhân bởi các nhóm virus như rhinoviruses, adenoviruses, corona viruses,… tổng cộng gần hơn 200 loại virus có thể gây nên. Ngay cả với những phương pháp hiện đại nhất được sử dụng để tìm loại virus ở bệnh nhân đang mắc cảm lạnh thì cũng không thể xác định được, mặc dù vẫn có biểu hiện bệnh lý hô hấp.
Việc chúng ta khi coi cảm lạnh là một bệnh lý y khoa cũng là một điều mà ta có khi cần phải nhìn nhận lại, khi đối chiếu định nghĩa như thế nào mới là bệnh tật.
Trong Nhân loại học sức khỏe, các nhà nhân loại học định nghĩa “bệnh tật” là một trạng thái mất cân bằng của cơ thể do các thầy thuốc phát hiện ra. Cũng có suy nghĩ cho rằng bệnh tật chính là tình trạng đối ngược với tình trạng khỏe mạnh – hay sức khỏe. Với quan điểm trên, thì cảm lạnh có thể coi là một bệnh. Nhưng nếu cảm lạnh là một bệnh lý y học thì nên có một định nghĩa rõ ràng, thống nhất với nhau.
Nhưng qua những gì chúng tôi đã nêu ở trên, chưa có một sự đồng thuận nhất quán với nhau trong việc chẩn đoán thông qua cả triệu chứng học và virus học. Có lẽ cách tiếp cận chẩn đoán và điều trị cảm lạnh theo góc nhìn văn hóa sẽ là một cách tiếp cận hợp lý và dễ dàng hơn cả.
________________________________________
3. LỜI KẾT:
Ở đây, chúng tôi muốn khẳng định lại rõ, chúng tôi không hề cổ xúy việc các bạn tự chẩn đoán cho mình một bệnh nào đó mà không cần phải đi khám bác sĩ, trong khi có thể gây nguy hiểm cho chính bạn. Mà mục đích là để nêu lên những góc nhìn, đồng thời cũng là một cơ hội mà chúng ta có thể xem xét lại, có những phương pháp nào khác, những phương pháp y học cổ truyền, những tri thức y khoa bản địa bị bỏ quên nay được đem ra ứng dụng.
Từ đó chúng ta tự đặt ngược lại câu hỏi về những bệnh lý y khoa, về cách mà con người chúng ta tư duy, định nghĩa về bệnh tật và những cách tiếp cận khác nhau. Chữa trị hiệu quả hơn theo sự lựa chọn của chính các bạn, đơn cử như bạn có thể tự trồng các loại thảo dược dùng để xông giải cảm, hay hạ sốt… giúp giảm gánh nặng chi phí y tế. Điều này cũng là hướng tinh thần mô hình y tế “Primary health care” – chăm sóc sức khỏe ban đầu mà nền y học cộng đồng trên thế giới đang hướng tới.
Không chỉ vậy, việc chúng ta ứng dụng những tri thức bản địa có thể làm tiền đề cho sự phát triển, mở rộng thêm tri thức. Có thêm những nghiên cứu để so sánh, kiểm chứng những tác dụng của phương pháp cổ truyền có đem lại sự thay thế lâu dài nào hiệu quả hơn hay không.
________________________________________
P/s: Đến đây, thì các bạn có lẽ đã hiểu tại sao chúng tôi lại phân định “cảm lạnh” và “cúm” là vì vậy. “cúm” hay “cúm mùa” được xác định rõ bệnh lý nhiễm trùng đường hô hấp do chủng loại virus Influenza gây nên, có những test kit cận lâm sàng có thể test nhanh ra kết quả, định danh được cả type, chúng còn được xác định là bệnh lưu hành địa phương, thường xảy ra mỗi năm,… Trong khi cảm lạnh thì lại không có những yếu tố xác định rõ như thế, ngay cả định nghĩa, triệu chứng cũng còn đang rất chung, chưa được thống nhất rõ ràng.
Tài liệu tham khảo:
[1] Eccles R. (2013). Is the common cold a clinical entity or a cultural concept?. Rhinology, 51(1), 3–8.
[2] Heikkinen, T., & Järvinen, A. (2003). The common cold. Lancet (London, England), 361(9351), 51–59
[3] Baer, R. D., Weller, S. C., Pachter, L., Trotter, R., de Alba Garcia, J. G., Glazer, M., Klein, R., Deitrick, L., Baker, D. F., Brown, L., Khan-Gordon, K., Martin, S. R., Nichols, J., & Ruggiero, J. (1999). Cross-Cultural Perspectives on the Common Cold: Data from Five Populations. Human Organization, 58(3), 251–260.
[4] Common Cold. The Merck Manual. 17th edition ed. New Jersey: Merck Research Laboratories; 1999
[5] London: A & C Black; 2002. Black’s Medical Dictionary, 40th ed. [6] Weber, O. (2009, November 10). The role of viruses in the etiology and pathogenesis of common cold. Common Cold.
[7] asttmoh. vn/wp-content/uploads/2014/09/Nhan-hoc-y-hoc-va-cac-tinh-huong-LS pdf
[8] Quyên, L. (2004, February 12). Quan niệm của Đông y về cảm lạnh và cách điều trị. vnexpress.