Cá thể loài người được bao bọc trong một môi trường kép với lớp vỏ ngoài cùng là môi trường vật lý như thời tiết, địa hình và tài nguyên. Sau đó là lớp bọc thứ hai – vật trung gian, bao gồm cách con người vận hành đời sống cá nhân và điều chỉnh xã hội qua các ý tưởng, kinh nghiệm được truyền lại theo từng thế hệ, nắm giữ bởi thành viên trong cộng đồng cụ thể, một thiết bị chọn lọc nhận thức của con người về thế giới bên ngoài, chính là “văn hóa”.
Vậy “sạch sẽ” có phải là một sản phẩm văn hóa không?
Con người thường gắn liền không gian của bệnh viện với khái niệm “sạch sẽ” và sự tách biệt, tuy nhiên, thế nào là “sạch”? Đối với những sản phụ có thu nhập trung bình tại các vùng của Châu Mỹ Latinh, phòng bệnh “sạch” là một phòng bệnh riêng với khoảng không gian trống liền kề để một người giúp việc hoặc bà con họ hàng có thể ở lại chăm sóc bệnh nhân suốt ngày đêm. Còn ở vùng nông thôn của Ấn Độ, bệnh viện “sạch” được xây dựng với một loạt các quầy nấu ăn riêng biệt, nơi gia đình bệnh nhân có thể chuẩn bị các bữa ăn, vì đối với nền văn hóa của họ, các thành viên thuộc giai cấp khác không được phép xử lý thực phẩm. Như vậy, “sạch sẽ” thật ra cũng chỉ là một khái niệm rỗng, một yếu tố sẽ biến đổi tùy theo nền văn hóa mà nó thuộc về.
Song, con người vẫn luôn tin rằng suy nghĩ của mình là điều “đúng đắn”, là “lý trí và khoa học” mà không nghĩ đến những tác động của văn hóa đến tư duy bản thân. Đặc biệt với những cá nhân trong cùng một nền văn hóa sẽ thường lầm tưởng rằng suy nghĩ của mình là thuộc về chính cá thể mà không biết rằng “cá thể” vốn đã là một sản phẩm được kiến tạo từ xã hội. Điều này là nền tảng để tạo nên những định kiến sâu sắc của con người khi đánh giá các hành động của nền văn hóa khác biệt với mình: cho rằng xã hội của bản thân là “sạch sẽ”, “văn minh” hơn số còn lại và đặt các cộng đồng khác ở phía đối lập, gán cho những thực hành của họ là “dơ bẩn” hay “mê tín”.

Ấn Độ – quốc gia thường xuyên bị nhắc đến như một ví dụ điển hình của sự “dơ bẩn”, các kỹ sư y tế cộng đồng và những người khác làm việc ở Ấn Độ đã nghĩ ra các loại hố xí đặc biệt thích nghi với tư thế ngồi xổm của địa phương đồng thời đáp ứng các điều kiện đất đai, khí hậu và nguồn nước khác nhau. Tuy nhiên, phụ nữ tại địa phương lại hiếm khi sử dụng những nhà vệ sinh này. Mỗi sáng và chiều, những người phụ nữ “đi” thành từng nhóm ra đồng, không chỉ để giải khuây mà còn để tạm gác lại những công việc nội trợ bận rộn, để buôn chuyện, trao đổi những lời khuyên về chồng và mẹ chồng, và để tắm bằng nước từ bể nước đặt trên đồng ruộng. Các thói quen liên quan đến việc ra đồng để tụ tập xã hội, đi vệ sinh và tắm rửa là để đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt cộng đồng và thư giãn sau những công việc nặng nhọc hàng ngày. Nhưng hành động này của họ chính là sự “dơ bẩn”, là nguyên nhân tạo nên ô nhiễm và bệnh đường ruột đối với các “chuyên gia vệ sinh”. Các chuyên gia này thường khuyến khích người phụ nữ ở vùng quê Ấn Độ hãy thay đổi thói quen vệ sinh “dơ bẩn” này mà lại quên mất rằng đối với chính nền văn hóa của họ, hành động này không gắn với “dơ bẩn” mà thậm chí việc thay đổi nó còn khiến cho những phong tục truyền thống bị phá vỡ.
Không chỉ ở góc độ xuyên văn hóa, ngay trong cùng một cộng đồng ở những thời điểm khác nhau cũng đã có thể quan sát được sự tương đối rõ rệt của “sạch sẽ” và “dơ bẩn”. Việt Nam, nơi có tính cố kết cộng đồng tương đối cao, biểu hiện nổi bật của tính cộng đồng ở người Việt là việc ăn “chung”: chung một nồi lẩu, chung một chén chấm, đối với họ, việc dùng chung này vốn chỉ thể hiện sự thân thiết, không có gì là “dơ bẩn”. Tuy nhiên, trong giai đoạn xuất hiện đại dịch COVID, việc “chung đũa, chung chén” lại trở thành một hình thức báo hiệu bệnh tật, một hành động mang tính lây nhiễm và hiển nhiên “biểu hiện thân thiết” ban đầu này đã trở thành một thực hành “dơ bẩn”.
“Sạch” và “bẩn” mà chúng ta đang biết đến cũng chỉ là một trong vô vàn những ý niệm được định hình bởi các nền văn hóa riêng biệt. Do đó, không nên tách biệt phong tục, tôn giáo và khoa học y tế hay áp đặt tất cả cộng đồng phải tuân theo một khái niệm phổ quát về sự sạch sẽ hay bẩn thỉu. Y tế công cộng không thể chỉ có khoa học, mà còn phải gắn liền với bối cảnh văn hóa, với tiếng nói của chính cộng đồng.
Tài liệu tham khảo:
Barnett, H. G., & Barnett, H. G. . (1953). Innovation: The basis of cultural change. New York : McGraw-Hill.
Huong LTT, Tuyet-Hanh TT, Minh HV, et al. (2020) Access to Improved Water Sources and Sanitation in Minority Ethnic People in Vietnam and Some Sociodemographic Associations: A 2019 National Survey. Environmental Health Insights. doi:10.1177/1178630220946342
Paul, B. D. (1958). The role of beliefs and customs in sanitation programs. American Journal of Public Health and the Nations Health, 48(11_Pt_1), 1502–1506. https://doi.org/10.2105/ajph.48.11_pt_1.1502